Hai Bà Trưng

Trong lịch sử Việt Nam, nhiều sách trước đây đã cho rằng triều đại do Triệu Đà lập ra là một triều đại cổ Việt. Tuy nhiên, sử Trung Hoa cho biết rằng Triệu Đà là tùy tướng của Nhâm Ngao, và Nhâm Ngao là phiên tướng của nhà Tần. Trước khi từ trần, Ngao khuyên Triệu Đà nhân cơ hội Hán Sở tranh hùng, nên dựa vào địa thế xa xôi hiểm trở của quận Nam Hải, thành lập một nước độc lập với trung ương. Triệu Đà liền chiếm Nam Hải và tự xưng vương tức Triệu Vũ Vương, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung năm 207 TCN (giáp ngọ). Triệu Đà xua quân chiếm luôn các quận phía nam là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và cử người sang cai trị các quận nầy năm 198 TCN (quý mão).

Sau đó, tại Trung Hoa, Lưu Bang lật đổ nhà Tần lên cầm quyền tức Hán Cao Tổ (trị vì 202-195 TCN), lập ra nhà Hán (202 TCN - 220). Năm canh ngọ (111 TCN), Hán Vũ Đế (Han Wu Ti, trị vì 140-87 TCN) sai Lộ Bác Đức (tước là Phục Ba tướng quân) đem quân đánh nhà Triệu, giết vua Triệu lúc bấy giờ là Triệu Dương Vương và thái phó Lữ Gia, chiếm Nam Việt, rồi đổi Nam Việt thành Giao Chỉ bộ.

Đáng chú ý là bộ Giao Chỉ là một tên chung để chỉ một vùng rộng lớn gồm chín quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đạm Nhĩ mà trong đó, theo Ngô Thời Sỹ, chỉ có ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân,và Nhật Nam mới riêng hẳn là cổ Việt. Phải chăng vì lầm lẫn giữa bộ Giao Chỉ và quận Giao Chỉ mà nhiều sử thuyết đã đưa Triệu Đà thành một triều đại của cổ Việt và cho rằng lãnh thổ cổ Việt là khu vực cai trị của Triệu Đà bao gồm cả vùng Quảng Châu (Trung Hoa) ngày nay?

Sự kiện báo hiệu việc mở đầu công cuộc tranh đấu giành độc lập của nước cổ Việt thuộc địa bàn khu vực nước ta ngày nay là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 (canh tý). Trưng Trắc, người huyện Mê Linh (Phúc Yên ngày nay), cùng em là Trưng Nhị đánh đuổi thái thú Trung Hoa là Tô Định về nước, lấy được một số thành trì và tự xưng vương, đóng đô ở quê nhà là Mê Linh. Hai Bà Trưng đã được sử sách ghi lại là người địa phương Giao Châu đầu tiên lập chiến công chống lại chính quyền Trung Hoa, nói lên ý chí độc lập của người cổ Việt nhắm tạo dựng một quốc gia riêng biệt, thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa.

Năm 41 (tân sửu), Trung Hoa gởi Mã Viện sang Giao Châu. Mã Viện (14 TCN – 49) là một danh tướng nhà Hán, cũng được phong tước Phục Ba tướng quân, tiến đánh và dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 43 (quý mão). Nước cổ Việt tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của người Trung Hoa.

Về lịch sử cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có những vấn đề cần được xác định lại :

1. Tên chồng bà Trưng Trắc : Theo bộ Đại Việt sử ký toàn thư, được bộ Việt sử thông giám cương mục dựa vào đó chép lại, chồng bà Trưng tên là Thi Sách. Sau đây là lời của Toàn thư: “Tên huý là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Châu Diên

Khi viết tên chồng bà Trưng là Thi Sách, Ngô Sĩ Liên đã dựa vào tiểu truyện Hai Bà Trưng trong các sách Lĩnh Nam chích quái (Trích những chuyện quái ở đất Lĩnh Nam, thế kỷ 15), Việt điện u linh tập (Tập chuyện u linh ở Việt điện, thế kỷ 14) và xa hơn nữa là bộ sử của Trung Hoa do Phạm Việp viết là Hậu Hán thư. Ngành viết sử của nước ta chỉ bắt đầu vào thế kỷ 13, nên những đoạn sử trước đó, người xưa đều sử dụng tài liệu Trung Hoa.

Trong phần chính văn bộ Hậu Hán thư của Phạm Việp, có đoạn về Hai Bà Trưng như sau: “Hựu Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc, cập nữ đệ Trưng Nhị phản công đầu kỳ quận. Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố man di giải ứng, khấu lược Lĩnh ngoại lục thập dư thành, Trắc tự lập vi vương.” (nghĩa là: “Ở Giao Chỉ có người đàn bà tên là Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị nổi lên làm loạn, đánh phá trong quận. Người man di ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đến hưởng ứng, cướp phá hơn 60 thành ở Lĩnh ngoại. Trắc tự xưng vương.”)

Vào thế kỷ thứ 6, một tác giả khác tên là Lịch Đạo Nguyên, đã du lịch sang cổ Việt, đến thăm vùng Mê Linh. Khi trở về Trung Hoa, ông viết sách Thuỷ kinh chú, trong đó ông có đề cập đến chuyện Hai Bà Trưng và viết như sau: "...Châu Diên lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê...” (nghĩa là: ...Con trai của lạc tướng Châu Diên tên là Thi hỏi [sách] con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem quân đánh, [ông bà] Trắc Thi chạy vào Cẩm Khê...)

Dựa vào tài liệu Thuỷ kinh chú, trong khi chú thích phần chính văn viết về Hai Bà Trưng của Hậu Hán thư, thái tử Lý Hiền đời nhà Đường, vào thế kỷ thư 8, đã chú thích rằng: “Trưng Trắc giả, Mê Linh huyện Lạc tướng chi nữ dã, giá vi Châu Diên nhân Thi Sách thê, thậm hùng dũng.” (nghĩa là: “Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh được gả làm vợ một người huyện Châu Diên là Thi Sách, bà rất hùng dũng.”

Cần lưu ý là sách chữ Nho ngày xưa viết không có chấm câu, nên người đọc có thể không biết câu văn dừng lại ở chỗ nào, và rất dễ lẫn lộn câu nầy qua câu khác. Trong chú thích cuả mình, thay vì viết tên “Thi” như Thuỷ kinh chú, thái tử Hiền đã viết thành “Thi Sách”.

Cách viết của thái tử Hiền về tên chồng bà Trưng dẫn đến cách viết của các tác giả Việt, từ Việt điện u linh tập, đến Việt sử lược, qua Lĩnh Nam chích quái, rồi đến các bộ chính sử Toàn thư và Cương mục, nghĩa là các sách nầy đều cho rằng chồng bà Trưng tên là Thi Sách. Sự lầm lẫn nầy không phải do các tác giả Việt tự ý viết ra, mà do ảnh hưởng của lời chú thích Hậu Hán thư của thái tử Hiền bên Trung Hoa.

Người phát hiện ra sự lầm lẫn về tên chồng bà Trưng trong chú thích của thái tử Hiền là học giả Huệ Đống, vào thế kỷ thứ 18, dưới đời nhà Thanh (Trung Hoa). Khi so sánh chú thích của thái tử Hiền trong Hậu Hán thư và câu văn nguyên thuỷ của Thuỷ kinh chú, Huệ Đống viết như sau: “Cứu Triệu Nhất Thanh [16] viết “Sách thê” do ngôn thú thê. Phạm sử tác: “Giá vi Châu Diên nhân Thi Sách thê” mậu hỉ. Án Thuỷ kinh chú ngôn “tương Thi”, ngôn “Trắc Thi”, minh chỉ danh Thi.” (nghĩa là: “Xét Triệu Nhất Thanh nói: “sách thê” còn có nghĩa là “cưới vợ”; các sử học Phạm chép “Gả làm vợ người Châu Diên là Thi Sách” là sai. Xem Thuỷ kinh chú thấy nói “tương Thi”, rồi nói “Trắc Thi”, chỉ rõ ràng tên ông đó là Thi.”

Trong Thuỷ kinh chú, Lịch Đạo Nguyên viết: “...Châu Diên lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê. ” (nghĩa là: “Con trai của lạc tướng Châu Diên tên là Thi, hỏi [sách] con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ.”). Trong câu nầy, nếu Thi Sách là họ và tên thì vế thứ nhì của câu nầy thiếu động từ, trở nên tối nghĩa. Như Huệ Đống đã viết, đọc tiếp đoạn Thuỷ kinh chú về Hai Bà Trưng, sự cân đối trong cách dùng từ sẽ cho thấy rõ tên của chồng bà Trưng. "... Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê...” (...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem quân sang đánh, [ông bà] Trắc Thi chạy vào Cẩm Khê...) Tác giả Lịch Đạo Nguyên dùng tên Trắc, vậy thì chữ Thi theo sau đó cũng phải là tên chứ không thể là họ. Lịch Đạo Nguyên đã đến Mê Linh vào thế kỷ thứ 6 và phát hiện tên chồng bà Trưng tên là Thi, vậy tốt nhất nên trở về đúng tên ban đầu của chồng bà Trưng, tức là ông Thi.

2. Lý do cuộc khởi nghĩa : Theo Toàn thư, thái thú Trung Hoa là Tô Định cai trị tàn bạo, dùng pháp luật trói buộc, lại giết chồng Bà Trưng nên Bà khởi nghĩa. Sau đây là lời của Toàn thư: “ Mùa xuân, tháng Hai [canh tý], vua [Trưng Trắc] khổ vì thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới cùng em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở châu...”

Như trên đã trích dẫn, theo Lịch Đạo Nguyên trong sách Thủy Kinh Chú thì: "... Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê...” (...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem quân sang đánh, [ông bà] Trắc Thi chạy vào Cẩm Khê...) như vậy có nghĩa là ông Thi còn sống khi Bà Trưng nổi lên. Vậy lý do khởi nghĩa vì thù chồng mà Toàn thư viết không đứng vững.

Một tài liệu khác đã giải thích vì sao chồng Bà Trưng bị khai tử trong khi ông vẫn còn sống và cùng vợ khởi nghĩa. Đó là quyển The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh] của tác giả Keith Weller Taylor. Trong sách nầy, tác giả Taylor cho rằng do thành kiến trọng nam, các nhà viết sử người Việt của những thế kỷ sau thời Hai Bà Trưng không thể chấp nhận chuyện một người phụ nữ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và trở thành vua trong khi ông chồng vẫn còn sống, nên họ đã viết rằng Tô Định đã giết chồng Bà Trưng. Trong khi đó, cũng theo Taylor, những tài liệu Trung Hoa cho thấy rõ rằng ông Thi đã theo Bà Trưng khởi nghĩa.

Về lý do thứ nhất, Bà Trưng khởi nghĩa vì bị luật pháp ràng buộc, khi chú thích Hậu Hán thư của Phạm Việp, cũng trong đoạn viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, thái tử Hiền đã viết vào thế kỷ thứ 8:"...Giao Chỉ thái thú Tô Định dĩ pháp thằng chi, Trắc oán nộ cố phản...” (...Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng luật pháp trói buộc nên [bà] Trắc tức giận làm phản...).

Chữ "pháp" mà thái tử Hiền dùng không phải chỉ một nghĩa hẹp là "luật lệ", mà chữ "pháp" ở đây có thể hiểu rộng hơn như là pháp chế, tổ chức hành chánh, chính trị, cũng như kinh tế, văn hóa, phong tục. Nói một cách khác, Tô Định đã áp đặt mạnh mẽ chế độ cai trị của Trung Hoa theo chính sách đồng hóa của nhà Hán (202 TCN - 220), làm mất tự do của người cổ Việt, và Trưng Trắc đã nổi lên khởi nghĩa chống lại Tô Định. Về pháp luật, trong một đoạn nói về việc cai trị của Mã Viện sau khi dẹp Hai Bà Trưng, Hậu Hán thư chép: "Điều tấu Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự." (Luật dân Việt và luật nhà Hán khác nhau đến trên mười điều). Có lẽ Hậu Hán thư viết nhẹ nhàng là chỉ có mười điều, nhưng nếu là mười điều căn bản tối quan trọng của tổ chức xã hội thì cũng đủ trở thành gông cùm trói buộc những người cổ Việt đang sống tự do theo phong tục tập quán của mình.

Như vậy, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa vì ý chí tự do độc lập của dân tộc cổ Việt. Lý do nầy rất cao cả, chính đáng, và mạnh mẽ. Phải chăng khi nghĩ rằng việc bị pháp luật ràng buộc không đủ mạnh, nên các sử gia chính thống ngày trước phải thêm chuyện thù chồng để việc nổi dậy thêm phần ý nghĩa. Nói cho cùng, chuyện thù chồng chỉ là chuyện cá nhân của mỗi người, chứ không phải là đại nghĩa của đất nước; huống gì ở đây chồng bà Trắc còn sống và cả hai cùng nổi dậy. Cũng chính vì thêm việc thù chồng, nên các tác giả của các bộ sử trên đây biên chép kết quả cuộc khởi nghĩa không rõ ràng.

Cần chú ý, lúc đó Mã Viện đã về hưu trí, nhưng vua nhà Hán phải mời Mã Viện ra cầm quân trở lại để bình định cổ Việt, đủ thấy sức kháng cự của Hai Bà Trưng rất mạnh mẽ làm cho nhà Hán phải lo ngại gởi một danh tướng đi đánh dẹp.

3. Kết quả cuộc khởi nghĩa : Theo Hậu Hán thư, khi Mã Viện được vua Hán cử sang Giao Châu năm 41, thì vào mùa xuân năm sau, Mã Viện đụng trận với Hai Bà Trưng tại vùng Lãng Bạc. (theo Cương mục, Lãng Bạc là vùng hồ Tây, Hà Nội ngày nay) Bà Trưng cùng chồng thua chạy. Mã Viện đuổi Bà Trưng đến Cẩm Khê, đánh thắng mấy trận, quân bà Trưng bị tan rã. (theo Cương mục, Cẩm Khê là vùng Sơn Tây ngày nay). Hậu Hán thư còn viết tiếp Mã Viện chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gởi đầu về Lạc Dương vào tháng giêng năm 43.

Trong Việt sử lược, tác giả khuyết danh đã viết: “Năm thứ 19 [niên hiệu Kiến Vũ nhà Hán tức năm 43] Trưng Trắc càng nguy khốn, bị Mã Viện giết.”Tác giả Lê Tắc (24) trong An Nam chí lược cũng viết như thế: “Năm Kiến Vũ thứ 19, Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị và đánh luôn cả dư đảng, bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong, bọn nầy đầu hàng.”Lê Tắc gọi Hai Bà Trưng là “yêu tặc” vì lúc đó ông đầu hàng quân Nguyên, nên ông đứng trên quan điểm của người Trung Hoa viết về vị nữ anh hùng dân tộc Việt.

Tuy nhiên, khi viết chính sử vào thế kỷ thứ 15, Ngô Sĩ Liên dừng lại ở chỗ Hai Bà Trưng thua chạy, chứ không đề cập đến cái chết của Hai Bà. Sau đây là lời của Toàn thư: “Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cẩm Khê. Quân chúng cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy. Quốc thống lại mất.”

Toàn thư không đề cập đến cái chết của Hai Bà Trưng, nên trong Việt sử tiêu án, Ngô Thời Sỹ cũng viết: "...Trưng Vương thấy quân nhà Hán thế mạnh, tự nghĩ quân mình ô hợp sợ không chống nổi bèn lui về giữ ở Cẩm Khê. Quân lính cũng nghĩ vương là người con gái, không thể địch với tướng Hán được, đều tự vỡ chạy...Xét quân Hai Bà Trưng thua chạy đến núi Hy Sơn, rồi không biết đi đâu...”

Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết:"...Được ba năm, nhà Hán sai Mã Viện sang đánh. Vua [chỉ Trưng Trắc] thấy quân Hán đông, tự xét không thể địch nổi, mới lui giữ Cẩm Khê. Quân đều tan vỡ. Vua cùng quân Hán đánh nhau, thế cùng phải chết. Nước bị mất...” Như thế, Phan Huy Chú đã viết rõ ra rằng Trưng Trắc bị thua, bỏ chạy vào Cẩm Khê, và từ trần mà tránh nói vì sao bà từ trần.

Qua đến Cương mục, các tác giả sách nầy cho rằng Hai Bà “thất trận chết”. Sách Cương mục viết: “Trưng Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán; quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết."

Ngang đây, xuất hiện bộ sử thi Đại Nam Quốc sử diễn ca [Sử nước Đại Nam diễn ra lời ca] dưới thời vua Tự Đức. Các tác giả sách nầy đã thi vị hóa cái chết của Hai Bà Trưng:

" Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cùng liều với sông.”

Trí tưởng tượng của các thi sĩ trên được tác giả Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng tô điểm thêm trong bài "Thân thế và sự nghiệp của hai bà Trưng" trên báo Tri Tân, số 38 ra ngày 11-3-1942, trang 219. Nguyễn Tường Phượng viết: "...Chị em Trưng Vương thất thế phải gieo mình xuống cửa sông Hát giang mà tự tận...”

Hình ảnh gieo mình xuống sông Hát có vẻ vừa hào hùng, vừa lãng mạn dễ trở thành đề tài cho thi ca nhạc kịch, và dễ được lan truyền trong trí tưởng tượng của quần chúng hơn là hình ảnh thân gái hy sinh nơi chiến trường, bị bắt chặt đầu một cách rùng rợn rồi gởi về Trung Hoa.

Với tinh thần của một người ngoại cuộc, theo những tài liệu phát hiện được, tác giả Keith Weller Taylor viết thẳng thừng rằng: "Mã Viện tiến đến Mê Linh, và vào cuối năm [42] đã bắt được Trưng Trắc cùng em là Nhị; vào tháng giêng năm sau, đầu của hai chị em được gởi về triều đình nhà Hán ở Lạc Dương”

Có thể các sử gia người Việt ngày trước muốn tránh né một sự thật đau lòng và không mấy vẻ vang cho dân tộc Việt, nên tránh né không viết chuyện Mã Viện chém đầu Hai Bà Trưng gởi về dâng lên triều đình Trung Hoa, rồi đến các văn nhân đã thi vị hóa bằng cách mô tả Hai Bà đã tuẫn tiết trên dòng sông Hát.

Tuy nhiên việc Hai Bà Trưng bị chết một cách thảm thương như vậy đâu có làm giảm oai linh của người nữ anh hùng dân tộc chúng ta. Điều đó càng chứng tỏ Hai Bà Trưng đã quyết chiến đấu đến cùng, và hy sinh tính mạng trên chiến trường vì nền độc lập của dân tộc chúng ta. Chẳng những trong lịch sử Việt Nam, mà cả trong lịch sử thế giới Hai Bà Trưng được ghi nhận là trường hợp người phụ nữ đầu tiên nổi lên sớm nhất chống lại quân ngoại xâm giành lại nền độc lập cho dân tộc. Đó là một sự hy sinh vĩ đại của một bậc nữ lưu mà cổ kim đông tây không thấy có, và đời đời dân tộc Việt tưởng nhớ ghi ơn.

Khi đọc đoạn sử về Hai Bà Trưng, vua Tự Đức (trị vì 1847-1883) đã ngự phê: " Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm dư! "

HƠN HAI THẾ KỶ BỊ NHÀ HÁN ĐÔ HỘ

Sau khi Triệu Đà thôn tính được Âu Lạc (năm 179 T.T.L) các triều đại phong kiến phương Bắc nối tiếp nhau đô hộ nước ta. Âu Lạc bị chia thành quận, huyện do chính quyền người Hán cai quản.

Bọn quan lại đô hộ tìm mọi cách áp bức và bóc lột người dân Việt Âu Lạc. Chúng bắt dân ta phải lên rừng săn voi, tê ngưu, bắt chim quý, đẵn gỗ trầm. Xuống biển lặn mò ngọc trai, bắt đồi mồi, khai thác san hô để cống nạp cho chúng hàng tháng; mỗi năm sưu thuế càng nặng...

Chúng đưa người Hán sang ở lẫn với dân ta, bắt dân ta phải theo phong tục, tập quán của người Hán; học chữ Hán, sống theo luật pháp của người Hán. Bọn quan lại cai trị đã dốc sức thực hiện chủ trương “đồng hóa” người dân Âu Lạc thành dân Hán, để có thể thống trị vĩnh viễn; biến nước Âu Lạc thành một quận huyện của Trung Quốc.

Biết được dã tâm của bọn chúng, người dân Việt đã cương quyết chống lại sự đồng hóa của quân đô hộ; luôn giữ gìn các phong tục, truyền thống vốn có của mình. Đồng thời, cũng tiếp thu cái hay, cái đẹp của văn hóa nước ngoài; như nghề làm giấy, thổi thủy tinh, làm đồ trang sức bằng vàng, bạc...

Không những thế, nhân dân ta còn liên tục nổi dậy với vũ khí, gậy gộc; đánh chống lại sự tàn bạo, dã man của quân đô hộ để giành lại nền độc lập...

Mở đầu là cuộc khởi nghĩa oai hùng, lẫm liệt của Hai Bà Trưng - hai người con gái nước Việt...


VỀ CUỘC ĐỜI CỦA HAI BÀ TRƯNG

Quan Lạc tướng ở huyện Mê Linh, làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, có hai người con gái : Người chị tên là Trưng Trắc; em là Trưng Nhị.

Hai chị em nhà họ “Trưng” này đã được gia đình quan Lạc Tướng Mê Linh hết sức yêu quý; không những cả hai chị em đều xinh đẹp, mà còn rất thông minh; có lòng nhân ái rộng lớn.

Quan Lạc Tướng đã nhờ thầy chỉ dạy cho hai chị em từ lúc còn thơ trẻ - về “đạo làm người”, về “nhân nghĩa” và cả về võ nghệ.

Trưng Trắc thường rủ em là Trưng Nhị cùng đi ngao du đây đó; khắp các thôn bản; để được gần gũi người dân, thăm hỏi và giúp đỡ gia đình họ.

Trưng Trắc thường xin cha mẹ thóc gạo, vải vóc, thực phẩm - tự tay mang đến giúp những làng bản xa xôi, đang sống cảnh khốn khổ.

Hằng ngày, được đi đây đó; hai chị em đều nhìn thấy rõ cảnh tượng đói khát, lầm than, tăm tối của người dân Âu Lạc.

Có nhiều gia đình có chồng, con lên tận rừng sâu để săn bắt voi, tê giác, chặt gỗ trầm... về “nộp thuế” cho bọn quan quân đô hộ nhà Hán; đã bị mất tích chết luôn trong rừng thẳm, hay trở về với thương tích thê thảm trên mình...

Người xuống biển lặn tìm ngọc trai, san hô thì bị chết ngộp vì đói lạnh - bị cá sấu cướp đi tay chân - hay có ra đi mà không có trở về...
Mỗi năm thuế càng cao, sưu càng nặng - người dân Âu Lạc không chốn nào được yên ổn, no đủ cả ?

Quê hương, làng bản chìm trong màn tang tóc, thống khổ, Hai BàTrưng đã nhiều phen thưa trình với cha về nỗi ước mong được góp phần làm thay đổi tương lai đất nước...

Nghe lời khuyên dạy của cha, ngày đêm hai chị em ra sức luyện tập võ thuật, kiếm cung, cùng với những người thầy được chiêu mộ giỏi nhất nước. Trưng Trắc rất có tài về bắn cung, còn Trưng Nhị lại giỏi về kiếm thuật.

Trưng Trắc đã từng bắn chim đang bay giãy chết. Trưng Nhị vừa phi ngựa, hay cỡi voi, vừa đánh trả đội quân giã bao vây nàng hơn mấy chục người...


CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG

Năm Giáp Ngọ (34TL) là năm kiến võ thứ 10, Vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái Thú quận Giao Chỉ (nước Việt, Âu Lạc).

Tô Định là người bạo ngược, chính trị tàn ác; người Giao Chỉ đã có lòng căm thù quân Hán - nay càng thêm oán hận.

Quan Thái Thú bày thêm nhiều thứ thuế mới, thu góp hết tài sản quý báu của đất nước; một phần đem về nước làm của riêng, một phần cống nộp cho vua để lấy công. Bởi vậy đời sống nô lệ của dân Âu Lạc - Giao Chỉ, không có bút mực nào kể xiết !

Để giữ yên chức tước, quyền lợi, bổng lộc; Tô Định thẳng tay đàn áp, bắt bớ, giam cầm, xử chém nhiều nhà Cách mạng yêu nước, muốn khởi nghĩa đánh dẹp quân Hán, giành lại độc lập, tự do, cho dân tộc.

Năm Canh Tý (40TL) - Thi Sách, người ở quận Châu Diên (Phủ Vĩnh Tường, trước thuộc về Sơn Tây - nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên) là chồng của Trưng Trắc; đang chiêu tập binh sĩ, liên kết với người cùng chí hướng, yêu nước ở các quận lân cận là Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố... để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán...

Cuộc khởi nghĩa đang ở vào giai đoạn quy tụ lực lượng - binh lính, lương thực. Thì Thi Sách và một số thủ lĩnh các quận huyện bị Tô Định vây bắt.

Tô Định đã cho xử chém Thi Sách là người đầu cuộc nổi dậy (40TL). Bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị - và dân Âu Lạc vô cùng căm phẫn. Bà Trưng Trắc đã vì “thù nhà nợ nước” - đứng ra lãnh đạo binh sĩ, tiếp tục sự nghiệp khởi nghĩa của dân - giúp nước của chồng đã bị dang dở.

Bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đã phất cờ khởi binh bên bờ sông Hát Giang. Hai bà đều cỡi voi, mặc chiến bào, cầm đầu đoàn quân nổi dậy, ào ạt tiếng công đánh chiếm toàn huyện Mê Linh một cách nhanh chóng.

Từ Mê Linh nghĩa binh tiến xuống đánh chiếm Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nộ). Đoàn quân đi đến đâu, đều được dân chúng nghênh đón, ủng hộ lương thực, vũ khí, gậy gộc. Dân chúng khỏe mạnh, dầu già hay trẻ, đều tham gia vào đoàn quân, tấn công thành Luy Lâu - trụ sở chính của quân đô hộ (Thuận Thành - Bắc Ninh).

Trước sức mạnh vỡ bờ ào ạt của nghĩa binh; quân Hán tưởng như bị những đòn sét đánh, không dám chống cự, bỏ hết của cải, vũ khí lo chạy thoát thân !

Lúc bấy giờ, Tô Định được tin cấp báo các thành ở quận, huyện đã bị mất; sợ hãi tự cắt tóc, cạo râu - mặc giả dân thường, lẫn vào đám tàn quân, chạy trốn về Hải Nam - Trung Quốc.

Trong vòng chưa đầy một tháng, nghĩa quân đã thu phục được toàn bộ 65 thành bị quân đô hộ nhà hán chiếm đóng trên hai trăm năm...

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã thắng lợi hoàn toàn. Sau hơn hai thế kỷ bị phong kiến nước ngoài đô hộ (179TL - 40TL), nhân dân ta lần đầu tiên đã giành được độc lập...

Tại đất Mê Linh, Hai Bà Trưng đã làm lễ cáo tế Trời Đất - lên ngôi vua - hiệu là “Trưng Nữ Vương” - bắt đầu công cuộc xây dựng lại đất nước...


NĂM THÁNG CUỐI CÙNG CỦA HAI BÀ TRƯNG

Công việc đầu tiên sau khi chọn đất quê nhà Mê Linh làm kinh đô; Hai Bà Trưng đã đem các kho lương thực thực của giặc, phân phát cho dân nghèo đang thiếu đói. Hủy bỏ các loại siêu thuế bất chánh; tổ chức lại guồng máy cai trị dân chủ tại các quận.

Ngoài tài thao lược võ thuật, Trưng Nữ Vương còn có lòng nhân từ, có ý chí cao cả; đêm ngày dốc sức cùng em, cùng các thủ lĩnh xây dựng lại quê hương Âu Lạc đã bị vơ vét kiệt quệ về kinh tế, suy yếu cùng cực về tinh thần.

Nhân dân Ân Lạc luôn đồng lòng, làm theo mọi lời kêu gọi, chủ trương của Trưng Nữ Vương, nên cuộc sống đã sớm ổn định về mọi mặt. Chưa bao giờ dân Việt được hưởng trọn vẹn sự tự do, yên vui, hạnh phúc như thời gian này...

Công cuộc tái thiết, xây dựng lại đất nước chưa được ba năm - thì năm Tân Sửu (41) Vua quan Vũ sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm phó tướng, cùng với quan Lâu Thuyền tướng quân là Đoàn Chi sang đánh Trưng Vương.

Mã Viện là một một danh tướng nhà Đông Hán, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn khỏe mạnh, đem quân đi men theo bờ bể phá rừng đào núi làm đường sang đến Lãng Bạc; gặp quân Trưng Vương - hai bên đánh nhau mấy trận...

Quân của Trưng Vương là quân ô hợp, chưa được rèn luyện kỹ, chưa có kinh nghiệm chiến trận; nên không chống nổi quân của Mã Viện đã từng đánh giặc nhiều phen, khá tinh nhuệ.

Hai Bà Trưng cho quân rút về đóng ở Cấm Khê (phủ Vĩnh Tường - Vĩnh Yên) để củng cố lực lượng, phòng thủ các quận gần Kinh Đô.

Mã Viện tiến quân lên đánh, quân Hai Bà vỡ tan cả, vì thế lực quân Hán rất đông - tiến đánh ào ạt để trả thù cho cái nhục mấy năm trước.

Hai Bà chạy về đến xã Hát Môn thuộc huyện Phú Lộc (nay là huyện Phúc Thọ, Sơn Tây) - thế bức qua, biết không thể chống cự nổi đám quân hiếu chiến xâm lược - Hai Bà Trưng liền quỳ xuống bên bờ sông Hát Giang (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng Hà) - hướng về Kinh Đô quê nhà Mê Linh bái lạy tạ lỗi rồi nhảy xuống sông hát tự vẫn; không để bị bắt về tay giặc : Đó là ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43).

Những tướng của Hai Bà là Đô Lương chạy vào giữ huyện Cư Phong, thuộc quận Cửu Châu trong một thời gian ngắn. Quân của Mã Viện hùng hổ tiến đánh, nhưng thiệt hại nặng mới chiếm được thành. Quân của Đô Lương tan rã...

Hai Bà Trưng làm Vua được 3 năm - nhưng lấy tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn, đánh đuổi được một hệ thống đô hộ hơn 2 thế kỷ; giành lại được độc lập cho đất nước - thật đã làm cho Vua tôi nhà Hán phải khiếp sợ, nể phục. Uy danh, tiếng thơm của Hai Bà vẫn còn truyền giỏi mãi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Dân Tộc Việt.

Đến ngày nay, nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà để ghi tạc công ơn to lớn của hai người nữ anh hùng đầu tiên của Việt Nam. Tại làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây; và ở bãi Đồng Nhân gần Hà Nội, đều có đền thờ Hai Bà đến ngày Mồng 6 tháng 2 thì có lễ Hội.

(sưu tầm)

1 nhận xét:

Cảm ơn bạn đã ghé thăm trang Những điều nhỏ bé, rất hân hạnh được đọc những lời chia sẻ chân tình của bạn. Chúc bạn luôn thành đạt và hạnh phúc trong cuộc sống.