Nguyễn Khuyến

Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909)


Nhà thơ Nguyễn Khuyến sinh ngày 15/02/1835. Biệt hiệu là Quế Sơn,tự Miễn Chi.Sinh ở làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhưng chủ yếu sống ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.Quê nội của cụ ở làng Và, xã Yên đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Nam Hà.Cha là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi cụ Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), con cụ Trần Công Trạc, từng đỗ sinh đồ (tú tài) thời Lê Mạt.

Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, được ông nghè Vũ Văn Lý nuôi ăn học.Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Hương Nguyên) trường Hà Nộị Năm sau ông trượt thi Hội, thi đình nên phẫn chí ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và đình Nguyên. Từ đó Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên đổ.

Năm 1873, ông được bổ làm đốc Học, rồi thăng Án Sát tỉnh Thanh Hóạ Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãị Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán.
Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên đổ vào mùa thu 1884 và qua đời tại đấy ngày 5 tháng 2 năm 1909.
Ông để lại các tập thơ văn Quế Sơn thi tập, Yên đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đốị.. truyền miệng.

Nguyễn Khuyến có biệt tài về thơ văn chữ Nôm. Ông viết nhiều, bao gồm nhiều thể loại khác nhaụ Ông thích tự vịnh, tự trào, phong cách thường ung dung, phóng khoáng, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý đông Phương. Một số lớn thơ văn ông cũng có khuynh hướng trào phúng, giễu cợt thế thái nhân tình và những thói hư tật xấu của người đờị.

Thơ Nguyễn Khuyến gồm cả Nôm và Hán, hiện sưu tầm được tới 800 bài, phần lớn các bài hay được viết sau khi cáo quan về quê (từ năm 1885). Tập tuyển này chủ yếu giới thiệu thơ Nôm, số lượng lại không nhiều nên chỉ nhằm giới thiệu những tinh hoa tiêu biểu nhất của thơ Nguyễn Khuyến.

Nguyễn Khuyến là một bậc khoa bảng cao nhưng lại có nỗi lòng thông hiểu đời sống, tâm tư của người dân cấp thấp, những nông dân nghèo, thơ ông mang cả lời ăn tiếng nói của họ: Mấy năm cày cấy vẫn chân thua/ Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa/ Phần thuế quan thu, phần trả nợ/ Nửa công đứa ở, nửa thuê bò. Là bậc đại khoa nên ông trọng chữ nghĩa, coi bó sách nát là gia tài, là di sản cho các con lập nghiệp nhưng ngay trong bài thơ Ngày xuân dạy con ấy, ông lại viết: Các con nối chí cha nên biết/ Nghiên bút đừng quên lúa đậu cà.

Nguyễn Khuyến có biệt tài dựng cảnh làng xóm nông thôn Việt Nam mình. Thơ tả nhưng nói được hồn của cảnh và tâm sự lẫn lối sống của người. Cảnh xuân tết với Ình ịch đêm qua trống các làng và Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ Tổng/ Cách sân lẹt đẹt pháo thầy Nhang. Cảnh mùa thu: Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt/ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo... Chỉ vài nét mà như tạc ấn tượng vào người đọc: Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá/ Sư cụ nằm chung với khói mây. Mấy câu mở đầu bài Chợ Đồng như một câu hỏi thăm mà gợi được cả cảnh, cả xã hội, cả thời tiết, cả nỗi lòng kẻ tha hương: Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng/ Năm nay chợ họp có đông không/ Dở giời mưa bụi còn hơi rét...

Thơ Nguyễn Khuyến cũng là nỗi lòng trí thức trước thời cuộc, trước vận nước: Vua chèo còn chẳng ra chi/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề. Là sức phản kháng, tuy kín đáo nhưng quyết liệt, bọn xâm lược: Ba vuông phấp phới cờ bay dọc/ Một bức tung hoành váy xắn ngang. Là nỗi đau mất nước thâm trầm da diết: Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng/ Sao con đàn hát vẫn say sưa.

Nguyễn Khuyến sử dụng tiếng Việt rất tài tình, ông đưa ngôn từ dân dã thường ngày vào thơ bác học rất nhuyễn, làm sang trọng cho tiếng và làm giản dị cho thơ. Năng lực này ngay ở các nhà thơ hiện đại cũng không nhiều.

Nguyễn Khuyến làm quan tất cả 13 năm, còn phần lớn, cuộc đời ông sống ở quê, một vùng đồng chiêm nghèo. Thơ ông dựng lên được bức tranh về cuộc sống ở nông thôn VN hết sức sinh động và tinh tế. Vì vậy ông được coi là nhà thơ của làng quê VN. Ngoài ra, ông còn hướng ngòi bút vào mục tiêu phê phán xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Ngòi bút châm biếm kín đáo, hóm hỉnh, thâm thúy, sâu cay. Cùng với Tế Xương, ông là nhà thơ tiêu biểu của Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX.

Bài thơ vịnh “Kiều bán mình” của Nguyễn Khuyến

Vào đầu thế kỷ trước, cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có một bài thơ vịnh “Kiều bán mình” rất hóm. Cụ viết trong trường hợp khó bề từ chối trước một Ban giám khảo thi thơ. Bài thơ nôm ấy như sau:

Thằng bán tơ kia giở giói ra
Làm cho tội đến cụ Viên già
Muốn êm phải biện ba trăm lạng
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa
Đón khách mượn màu son phấn mụ
Đem thân chuộc lấy tội tình cha
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Đời trước làm quan, cũng thế a?

Vậy ai đã bày vẽ ra chuyện thi thơ vịnh Kiều vào đầu thế kỷ 20? Đó là Lê Hoan-Tuần phủ Hưng Yên, kiêm chức Khâm sai quân thứ Bắc Kỳ. Chính y cùng Hoàng Cao Khải từng đem quân theo Pháp đi tìm diệt nghĩa quân Bãi Sậy và Yên Thế. Trong báo cáo của Pháp gửi về Pa-ri: “Quân của Lê Hoan bắt được quân khởi loạn, giết rất man rợ! Cây tre bổ đôi, nẹp các đầu người xiết lại, lấy gươm sắc rọc cho rụng đầu xuống, rồi bêu đầu hàng tháng ở nơi nhiều người qua lại”. Ở chợ Đường Cái (sát đường số 5) ngày ấy, có 2 câu thơ (không rõ tên tác giả) dựng dưới những đầu lâu bị bêu:

Ký ngữ lộ nhân hưu yểm tỵ,
Sinh nhân bất cập tử nhân hương

Dịch:

“Nhắn khách qua đường đừng bịt mũi
Người sống sao thơm bằng người đã chết?”.

Khi trở về già, Lê Hoan sốt sắng làm việc “công đức”: Xây đền Kiếp Bạc (Hải Dương), ủng hộ quỹ Đông Kinh Nghĩa Thục với số tiền cao nhất (5.000 đồng Đông Dương). Hắn còn tổ chức thi “Vịnh Kiều” và cố mời cụ Nguyễn Khuyến tới làm Chánh chủ khảo kỳ thi cho danh giá. Cụ từ chối với lý do tuổi già sức yếu. Lần thứ hai Lê Hoan mời bằng được với mưu kế cho một đội lính tới Vị Hạ (Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam) khiêng võng cụ đến hội thi thơ. Cụ chấm cho Chu Mạnh Trinh được giải nhất. Đông đủ các quan, có cả Lu-i Mac-ty, Chánh phòng an ninh phủ Toàn quyền đến dự. Lê Hoan hỉ hả, nói với cụ Nguyễn Khuyến: “Cụ Tam Nguyên cũng phải làm một bài vịnh Kiều chứ! Ba phen cưỡi đầu thiên hạ, cụ làm chắc phải hay lắm!”. Từ chối không được, buộc lòng Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ trên. Đọc câu đầu tiên, cả phòng im bặt. Ai cũng biết “thằng bán tơ” là ai? Đến câu “Đem thân chuộc lấy tội tình cha” mọi người nhìn nhau phục đòn bút của cụ! Ở đầu phố Hàng Đào ngày đó có cậu ấm mặc quần áo trắng, chít khăn nhiễu, bị chứng tâm thần, cứ chắp tay vái khách đi đường giữa thanh thiên bạch nhật từ sáng đến tối. Đó là Lê Đại, con trai của Lê Hoan. Chính nó “Đem thân chuộc lấy tội tình cha!”. Đến hai câu cuối cùng thì đích thân L.Mac-ty đứng lên vái cụ, nói: “Tuyệt!”.


Câu đối dán chuồng heo

Nhà thầy học có giỗ, môn sinh được thầy cho ăn cỗ. Còn thừa một cỗ xôi, họ bàn chia phần. Một anh nẩy ra ý hay: ai dẫn được một câu trong sách ứng với việc lấy phần thì cho hưởng cả, khỏi phải chia. Mọi người tán thưởng..

Từ trưởng tràng (trưởng tràng là người học trò có uy tín được cử chỉ huy cả lớp học như lớp trưởng bây giờ) trở xuống đều gãi đầu, gãi tai, vắt óc lục hết Tứ thư, Ngũ kinh mà không tìm được câu nào. Riêng Nguyễn Thắng ( tên “cúng cơm” của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến) cứ tủm tỉm cười. Cuối cùng khi mọi người đã chịu, Thắng mới ung dung đọc:

“Thủ kỳ dư dĩ tử tôn! ”

Tức là “Lấy phần thừa để cho con cháu”

Nói rồi anh ta trút cả cỗ xôi thừa vào tráp của mình, đậy nắp lại.

Mọi người tưng hửng song đều phục Thắng là tài. Đó là một câu trong sách nói về việc tích đức để dành phần cho con cháu nhưng vận dụng vào việc lấy phần xôi thịt thừa thì quả là “láu”.

Trưởng tràng tức lắm, chọc Nguyễn Thắng:

-Chữ nghĩa chú mày cũng khá đấy. Lúc nào thư thả nghĩ cho mình đôi câu đối dán chuồng lợn.

Môn sinh cười ầm lên. Thắng ung dung:

-Nếu nhà anh cần, lấy ngay giấy bút ra đây, tôi đọc cho ghi.

Thấy câu chuyện ra chiều lý thú, anh em bèn đem giấy bút cho trưởng tràng, rồi xúm quanh chờ xem. Thắng đọc:

-Tràng tràng tràng tràng tràng tràng tràng

Mọi người ngơ ngác. Trưởng tràng quẳng bút không chịu viết tiếp. Thắng giục: “Cứ ghi đi!” và đọc tiếp:

-Tràng tràng tràng tràng tràng tràng tràng

Môn sinh cười ồ, tưởng Thắng chỉ đọc nhăng cho qua chuyện. Không ngờ, Thắng giật lấy bút ở tay trưởng tràng, vẽ thêm mấy nét móc cần thiết vào đầu mấy chữ “tràng” để thành chữ “trưởng”.

Do vậy hai câu trên thành đôi câu đối:

Trưởng trưởng, tràng tràng, tràng trưởng trưởng
Tràng tràng, trưởng trưởng, trưởng tràng tràng

Nghĩa là:

Lớn lớn, dài dài, dài lớn lớn
Dài dài, lớn lớn, lớn dài dài

Câu đối treo chuồng heo cầu cho heo chóng lớn, thiết tưởng không còn câu đối nào hay hơn nữa

Nhưng oái oăm thay, toàn bộ hai vế đối treo chuồng heo thu lại chỉ có hai chữ “trưởng tràng”

Anh trưởng tràng càng ngẫm lại càng cay


Nội dung thơ văn Nguyễn Khuyến

1.Tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng

1.1. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến:

Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến trước hết gắn kiền với tư tưởng trung quân. Ðây là một tư tưởng yêu nước hết sức chân chính tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa là một ông quan từng hưởng bổng lộc của triều đình nên tư tưởng trung quân đậm nét. Trong Di chúc, ông thể hiện rõ quan điểm của mình:

Khi đưa Thầy con rước đầu tiên

Cờ biển vua ban ngày trướcc

Sống giữa thời kỳ nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nứơc rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Lòng Nguyễn Khuyến từng dạt dào bao ý định chua xót về quyết định này:

Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,

Quy gia vị tất tử tôn hiền?

(Cảm tác)

Dịch nghĩa:

Bỏ chức há không bạn bè ở lại

Về nhà vị tất con cháu đã khen thay?

Về sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều người tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy rất rõ họ không phải là kẻ bất tài, mà trái lại, đó là những kẻ dũng thoái :

Khả hạnh chư quân năng dũng thoái,

Vị ưng nhất chức tẫn phi tài

Bách niên tứ hà vi giả,

Ngô ấp khâu lăng diệc mỹ tai!

(Vũ hậu xuân túy cảm thành)

Dịch nghĩa:

Ðáng mừng các bạn mạnh dạn dám lui về,

Ðâu phải là đối với chức vụ mình không làm nổi

Cuộc đời trăm năm xe ngựa có ra trò gì,

Mà ở quê chúng ta gò núi vẫn tươi đẹp lắm

(Cảm hoài sau bữa chén xuân sau cơn mưa )

Sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến sống ở làng quê và xem quê hương như chiếc nôi, chỗ dựa vững chắc ch cuộc sống bình dị của mình. Ông sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi người. Ông thường làm các bài thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ đẹp của các loài hoa, ca ngợi công dụng các loài cây, qua đó muốn nói đến cái đức của mình.

Nguyễn Khuyến còn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của con người nhằm khẳng định phẩm chất trong sạch của ông. Ông quan niệm:

Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc

Tâm trung thường thủ tự kiên kim

Lời ca ngợi tiết tháo của người đàn bà đáng thương trong bài thơ Mẹ mốc của Nguyễn khuyến có cái gì giống như sự quyết tâm của nhà thơ:

Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết.

Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.

Nguyễn Khuyến là người coi trọng danh dự và khí tiết nên nhiều lần nhà thơ từng trăn trở về vấn đề này:

Thế đồ kim hựu đa kha khảm,

Lợi cục nan năng quả oán vưu.

Vị ngã phất tu chung hữu khích,

Thức nhân thỏa diện tích bằng ưu.

(Tiểu thán)

Dịch nghĩa:

Trên đường đời, nay lại gặp nhiều bứơc gập gềnh,

Trong cuộc đời khó giữ được ít lời oán trách.

Kẻ phẩy râu cho mình, rốt cuộc cũng gây nên hiềm khích,

Người ta nhổ vào mặt mình chùi đi, đời xưa còn cho là đáng lo.

(Vài lời than)

Có thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ phẩm chất của mình. Nhiều bài thơ tiêu biểu có tính chất triết lý cao: Di chúc, Vườn Bùi chốn cũ, Vịnh cây tùng, Cây lược đồi mồi, Mẹ Mốc, Xuân dạ lân nga, nhân tặng nhục, Tiểu thán...

1.2. Sự quan tâm lo lắng cho đất nước:

Thể hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm được gì để thay đổi thời cuộc. Lời thơ thường đượm buồn, đầy nước mắt khi nói về đất nước:

Ðời loạn người về như hạt độc

Tuổi già hình bóng tựa mây côi.

(Cảm tác)

Sách vở ích gì cho buổi ấy

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già

(Ngày xuân dặn các con)

Hình ảnh quê hương đất nước xuất hiện trong thơ ôngkhi trực tiếp, khi gián tiếp, khi cụ thể nhưng đều dưới dạng trữ tình ảm đạm của nhà thơ:

Cố quốc sơn hà chân thảm đạm

(Hung niên)

Nhất độ giang sơn nhất bạc đầu

(Thu tứ)

Nhà thơ từng mượn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nước da diết, khắc khoải của mình. Bài thơ Cuốc kêu cảm hứng như một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông.

Nói chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ tình của Nguyễn Khyến là buồn. Nghe tiếng hát giữa đêm khuya hay tết đến, xuân về đều khiến nhà thơ buồn tê tái:

Xuân về ngày loạn còn lơ láo

Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ

2. Thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến :


2.1.Ðối với Pháp:

Ðả kích những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc lột sức người, sức của của nhân dân. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn người dân vô tội đến chốn ma thiêng nước độc. Bài thơ Hội Tây, Hoài cổ, Văn tế Cơ ri vi e(*)â… đã phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc:

Hỡi ôi!

Ông ở bê Tây,

Ông qua bảo hộ.

Cái tóc ông quăn,

Cái mũi ông lõ,

Ðít ông cưỡi lừa,

Miệng ông húyt chó,

Lưng ông đeo súng lục liên,

Chân ông đi giày có mỏ,

Ông dẹp cờ đen

Ðể yên con đỏ.

Ai ngờ:

Nó bắt được ông,

Nó chặt mất sỏ.

Cái đầu ông đâu?

Cái đít ông đó.

Khốn khổ thân ông

Ðéo mẹ cha nó

2.2. Ðối với bọn quan lại, bọn me Tây:

Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trường và thế giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại.

Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa thối nát của bọn quan lại nào là bất tài, vô dụng, dốt nát chỉ là thứ phỗng đá không hơn không kém, trơ trơ trước sự nguyền rủa của dân.

Thái độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát. Ông mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói mát chửi mát theo kiểu Việt Nam Nói ngọt mà lọt đến xương, Nguyễn Khuyến đả kích, châm biếm xỏ ngầm rất thâm độc. Thậm chí khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo như chơi chữ, nói láy, dùng từ đa nghĩa, dùng âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt.

Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,

Tiên là ý chú muốn vòi xu

Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc

Không khéo mà roi nó phết cho

(Bồ tiên thi)

Các bài thơ tiêu biểu: Ông phỗng đá, Lời vợ người hát chèo, Hỏi thăm quan tuần bị mất cướp, Bồ tiên thi, tặng ông Ðốc học Hà Nam đều là những bài thơ vạch mặt chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách bằng thái độ châm biếm tố cáo sâu sắc.

Trong bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Ðộ sinh từ hữu cảm là thái độ khinh bỉ, mỉa mai của Nguyễn Khuyến đả kích tên Nguyễn Hữu Ðộ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ của hắn, nhà thơ nghĩ:

Công tại, tứ thời tập quan đới,

Ðắc dự giả hỉ, bất dự bi.

Công khứ, quan đới bất phục tập,

Hương hỏa tịch tịch hoà ly ly.

Dản kiến đệ nhị vô danh công,

Triêu tịch huề trượng lai vu ty.

Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự,

Bất tri cửu nguyên thùy dữ quy?

Dịch nghĩa:

Khi ông còn thì áo mũ cân đai bốn mùa tấp nập,

Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn,

Sau khi ông mất rồi thì không thấy mũ áo xúm xít lại nữa,

Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà.

Chỉ thấy có ông Thứ nhì không tên

Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy.

Ở đời có lúc thịnh, lúa suy, đó là việc thường,

Không biết dưới chín suối bây giờ ông theo ai?

(Cảm nghĩ lúc qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Ðộ)

Nhưng có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang hàng Vợ bợm chồng quan danh phận đó (Ðĩ Cầu Nôm) dễ làm ta liên tưởng đến câu tục ngữ mèo mả gà đồng, là những tên không ra gì.

Ðặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Khuyến tỏ ra không khoang nhượng khi viết về bọn me Tây. Trong một vế câu đối Mừng cô Tư Hồng ông viết:

Có tàn, có tán, có hương án thờ vua danh giá lẫy lừng ba mươi sáu tỉnh.

Ở một câu đối khác:

Thôi cũng đừng cõng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú Bát, phú quý dì Tư, mây nổi đã từng qua trước mắt

Có thể nói, cũng như các nhà thơ thuộc khuynh hướng hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn Khuyến đã bám vào hiện tượng cụ thể để đả kích. Từng con người, từng hiện tượng và những sự việc lố lăng trong xã hội đều bị vạch trần và thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông.

2.3.Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy:

Cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhưng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế như xưa nữa. Thế nhưng nhà Nguyễn nẫn cố duy trì ba kỳ thi: Thi Hương , thi Hội, thi Ðình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Cống. Vì vậy, sự tương phản càng rõ nét.

Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những người không ra gì. Có danh nhưng không thực. Mặc dù:

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông Nghè có kém ai

Nhưng ông lại tiếc rẻ:

Chiếc thân xiêm áo sao mà nhẹ

Cái giá khoa danh thế mới hời

Ấy thế còn ra dáng đường bệ:

Ghế tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi


Bài thơ gợi ra mối liên tưởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở thời kỳ nước mất, nhà tan. Ðạo nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhưng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng.

Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ siõ bị đánh mất trước tiền tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve gái goá là một ví dụ tiêu biểu:

Ở góa thế gian nào mấy mụ

Ði ve thiên hạ thiếu chi thầy

Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy

Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.

3. Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương

3.1. Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:

Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhưng ông không hề thoát ly hiện thực. Lúc nào ông cũng say sưa chan hoà với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức chân thật và sống động.

- Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu … được tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.

- Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo.

- Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Ðọi) đều trở thành những danh lam thắng cảnh của đất nước.

Nguyễn Khuyến nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của người thưởng ngoạn và bằng tâm hồn của thi nhân nên trước vẻ đẹp của đất nước đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế.

3.2. Tình cảm của Nguyễn Khuyến:

3.2.1 Trước những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân:

Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của người lao đôïng nghèo.Ôâng đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ước cái họ từng mơ ước. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân:

Lão làm ái táo, miên tương khởi,

Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì

(Hạ nhật tân tình)

Dịch nghĩa:

Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy,

Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần mẫn ra.

(Ngày hè mưa mãi mới tạnh)

Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống.

Ngoài những lo toan tính toán vì công nợ của nhà nông:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua.

Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa

(Chốn quê)

Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác như tâm trạng vui vẻ của người nông dân vào những ngày tết được mùa được ông ghi nhận

Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng

Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt

Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:

Dở trời mưa bụi còn hơn rét,

Nếm rượu tượng đình được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xao xác,

Nợ nần năm trước hỏi lung tung.

(Chợ đồng)

3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm:

Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.

- Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông đối với vợ.

- Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm, hay làm thắt lưng có que,xắn váy quai cồng, tất cả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.

Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ, vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm

- Ðối với con,ông rất thương yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình:

Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ,

Tố nghiệp thư tha nhất thúc thư.

Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,

Bút nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ.

(Xuân nhật thị chư nhi )

Dịch nghĩa:

Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất,

Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách
Các con nối chí cha nên biết

Bút nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà

(Ngày xuân dặn các con )

- Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn... Bài nào cũng chân tình giản dị.

- Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc Dương Khuê, Nước lụt thăm bạn ... ). Trước cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác vài ngày.

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời!

Ai chả biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mãi lên tiên?

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua, không phải không tiền, không mua

(Khóc Dương Khuê)

(sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm ơn bạn đã ghé thăm trang Những điều nhỏ bé, rất hân hạnh được đọc những lời chia sẻ chân tình của bạn. Chúc bạn luôn thành đạt và hạnh phúc trong cuộc sống.