Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai thân mẫu đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm của ông đã vượt xa thầy. Tương truyền Lương Đắc Bằng là người giỏi lý học, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Lương Đắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông.
Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra.
Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho "số phận" nên đã ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào).
Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: "Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra "năm trăm năm sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người).
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng "kinh bang tế thế". Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền...
Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát "luật" đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình.
Sấm Trạng Trình :
1 - Vận lành mừng gặp tiết lành
2 - Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 - Một câu là một nhiệm mầu
4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5 - Trải vì sao mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay xe nhật phù lên
7 - Việt Nam khởi tổ xây nên
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 - Ðến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ rủ áo chấp tay
13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
14 - Tập bát tử rày quyền đã nổi lên
15 - Ðông a âm vị nhi thuyền
16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Ðoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
21 - Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
22 - Dưới lẫn trên nhà vẫn uống quen
23 - Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 - Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho
25 - Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
26 - Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
27 - Trời sinh ra những kẻ gian
28 - Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 - Áo vàng ấm áp đà hay
30 - Khi sui đấp núi khi say xây thành
31 - Lấy đạt điền làm công thiên hạ
32 - Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
33 - Con yết ạch ạch tranh khôn
34 - Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35 - Cơ trời xem đã mê đồ
36 - Ðã đô lại muốn mở đô cho người
37 - Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
38 - Suốt vạn dân cưu giận nhân than
39 - Dưới trên dốc chí lo toan
40 - Những đua bán nước bán quan làm giàu
41 - Thống rủ nhau làm mồi phú quí
42 - Mấy trung thần có chí an dân
43 - Ðua nhau làm sự bất nhân
44 - Ðả tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 - Dư đồ chia xẻ càn khôn
46 - Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
47 - Vội sang giàu giết người lấy của
48 - Sự có chăng mặc nọ ai đôi
49 - Việc làm thất chính tơi bời
50 - Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
51 - Xem tượng trời đả gia ra trước
52 - Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
53 - Cuồn phong cả sớm liền trưa
54 - Ðả đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55 - Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
56 - Ðể vạn dân dê lại giết dê
57 - Luôn năm chật vật đi về
58 - Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
59 - Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
60 - Cũng một lòng trời chống khác nao
61 - Xem người dường vững chiêm bao
62 - Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
63 - Một góc thành làm tâm chứng quỷ
64 - Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
65 - Bốn phương rời rở hồng trần
66 - Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
67 - Tiếc là những xuất dân làm bạo
68 - Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
69 - Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 - Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 - Hùm già lạc dấu khôn về
72 - Mèo non chi chí tìm về cố hương
73 - Chân dê móng khởi tiêu tường
74 - Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75 - Nội thành ong ỏng hư kinh
76 - Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
77 - Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
78 - Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
79 - Quốc trung kinh dụng cáo không
80 - Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 - Gà đâu sớm gáy bên tường
82 - Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
83 - Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 - Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85 - Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
86 - Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
87 - Ai còn khoe trí khoe năng
88 - Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
89 - Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90 - Bổng khiến người dá họa cho dân
91 - Muốn bình sao chẳng lấy nhân
92 - Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
93 - Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
94 - Ðúc tiền ra bán tước cho dân
95 - Xung xoe những rắp cậy quân
96 - Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
97 - Máy hoá công nắm tay dễ ngõ
98 - Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
99 - Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100 - Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
101 - Cát lầm bốn bể can qua
102 - Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
103 - Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 - Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 - Bấy giờ càng khốn thay ôi
106 - Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
107 - Thương những kẻ ăn rau ăn giới
108 - Gặp nước bung con cái ẩn đâu
109 - Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 - Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
111 - Xin những kẻ hai lòng sự chúa
112 - Thấy đâu hơn thì phụ thủa ân
113 - Cho nên phải báo trầm luân
114 - Ai khôn mới được bảo thân đời này
115 - Nói cho hay khảm cung rồng dấy
116 - Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
119 - Hể nhân kiến đã dời đất cũ
120 - Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
121 - Bốn phương chẳng động can qua
122 - Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
123 - Bấy giờ mở rộng qui khôi
124 - Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
125 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
126 - Hoàng phúc xưa đã định tây phong
127 - Làu làu thế giới sáng trông
128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
129 - Rõ sinh tài lạ khác thường
130 - Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
131 - Xem ý trời có lòng đãi thánh
132 - Ðốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
133 - Chọn đầu thai những vì sao cả
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 - Bắc phương chính khí sinh ra
136 - Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
137 - Song thiên nhật rạng sáng soi
138 - Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
139 - Ðời này thánh kế vị vương
140 - Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
141 - Uy nghi trạng mạo khác hình
142 - Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
143 - Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi
144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 - Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
147 - Ở đâu anh hùng hẳn biết
148 - Xem sắc mây đã biết thành long
149 - Thánh nhân cư có thụy cung
150 - Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lý kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hể trời sinh xuống phải thì
156 - Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 - Kìa những kẻ vội lòng phú quí
158 - Xem trong mình một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
161 - Xin khuyên đấng thời trung quân tử
162 - Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
163 - Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
164 - Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165 - Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
166 - Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
167 - Võ thông yên thủy thần kinh
168 - Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
169 - Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170 - Biết ray tay miệng biếng nói không
171 - Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 - Công danh choi chói chép trong vân đài
173 - Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 - Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175 - Nặng lòng thật có vĩ kinh
176 - Cao tay mới ngẫm biết tình năm nao
177 - Trên trời có mấy vì sao
178 - Ðủ no biền tướng anh hào đôi nơi
179 - Nước Nam thường có thánh tài
180 - Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
181 - So mấy lời để tàng kim quỉ
182 - Chờ hậu mai có chí sẽ cho
183 - Trước là biết nẽo tôn phò
184 - Sau là cao chí biết lo mặc lòng
185 - Xem đoài cung đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
187 - Nguôi lòng tham tước tham giàu
188 - Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 - Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 - Ngở oai đã dấy ngở nhân đã nhường
191 - Ai lấy gương vua U thủa trước
192 - Loạn ru vì tham ngược bất nhân
193 - Ðoài phương ong khởi lần lần
194 - Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 - Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 - Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
197 - Ấy là những binh thù Thái Thái
198 - Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu
200 - Tái binh mới động thập thò liền sang
201 - Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
202 - Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205 - Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
206 - Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
207 - Thành câu cá, lửa tưng bừng
208 - Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
211 - Sang thu chín huyết hồng tứ giả
212 - Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
213 - Ðua nhau đồ thán quần lê
214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 - Kẻ thì phải thủa hung hoang
216 - Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
217 - Kẻ thì mắc thủa hung tàn
218 - Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
219 - Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 - Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
221 - Bời bời đua mạnh tranh giành
222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 - Bể thanh cá phải ẩn cây
224 - Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225 - Nào ai đã dễ nhìn U
226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
227 - Cây bay lá lửa đôi ngàn
228 - Một làng còn mấy chim đàn bay ra
229 - Bốn phương cùng có can qua
230 - Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
231 - Ðoài phương thức có chân nhân
232 - Quần tiên khởi nghỉa chẳng phân hại người
233 - Tìm cho được chốn được nơi
234 - Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
235 - Bốn bề núi đá riểu quanh
236 - Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
237 - Hể đông nam nhiều phen tàn tạc
238 - Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
239 - Bắc kinh mới thật đế kinh
240 - Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 - Chim hồng vổ cánh bay cao
242 - Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
243 - Ai dễ cứu con thơ sa giếng
244 - Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
245 - Vạn dân chịu thủa u sầu
246 - Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
247 - Cấy cày thu đải thời mùa
248 - Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 - Nhân ra cận duyệt viễn lai
250 - Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
251 - Xem tượng trời biết đường đời trị
252 - Ngẩm về sau họ Lý xưa nên
253 - Giòng nhà để lấy dấu truyền
254 - Ngẩm xem bốn báu còn in đời đời
255 - Thần qui cơ nổ ở trời
256 - Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
257 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
258 - Sông Bảo Giang thiên định ai hay
259 - Lục thất cho biết ngày dày
260 - Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê
261 - Có thầy nhân thập đi về
262 - Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
263 - Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
264 - Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265 - Ra tay điều chỉnh hộ may
266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 - Lọ là phải nhọc kéo quân
268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
269 - Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270 - Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh
271 - Ân trên vũ khí vân hành
272 - Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
273 - Bản đồ chẳng sót cho ai
274 - Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275 - Vấng nền vương cha truyền con nối
276 - Dỏi muôn đời một mối xa thư
277 - Bể kình tâm lặng bằng tờ
278 - Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 - Au vàng khỏe đặt vững chân
280 - Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
281 - Vừa năm nhâm tý xuân đầu
282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 - Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 - Từ đinh đổi đời chí lực thất gian
285 - Một thời có một tôi ngoan
286 - Giúp trong việc nước gặp an thái bình
287 - Luận chung một tập kim thời
288 - Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
289 - Trượng phu có chí thời coi
290 - Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
291 - Tài nầy nên đấng vẽ vang
292 - Biết chừng đời trị biết đường đời suy
293 - Kể từ nhân đoản mà đi
294 - Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
295 - Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 - Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 - Thử cho tay giúp ra dùng
298 - Tài này so cùng tài trước xem sao
299 - Trên trời kể chín tầng cao
300 - Tay nghe bằng một ti hào biết hay
301 - Hiềm vì sinh phải thời này
302 - Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
303 - Hợp đà thay thánh nghìn tài
304 - Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305 - Nói ra thì lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 - Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
309 - Chờ cho nhân đoản hết sau
310 - Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 - Trời xui những kẻ ác gian
312 - Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
313 - Vua nào tôi ấy đã bày
314 - Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 - Ðua nhau bội bạn nghịch vi
316 - Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
317 - Tiếc tài gẩm được thời hay
318 - Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 - Tài trai có chí anh hùng
320 - Muốn làm tướng suý lập công xưng đời
321 - Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 - Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 - Ði tìm cho đến đế cung
324 - Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
325 - Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 - Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 - Chờ cho động đất chuyển trời
328 - Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
329 - Còn bên thì náu chưa xong
330 - Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 - Ðời ấy những quỉ cùng ma
332 - Chẳng còn ở thật người ta đâu là
333 - Trời cao đất rộng bao xa
334 - Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335 - Dù trai ai chửa biết tường
336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 - Ý ra lục thất gian nay
338 - Thời vận đã định thời nầy hưng vương
339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 - Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
341 - Vua ngự thạch bàn xa thay
342 - Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 - Gà kêu vượn hót vang lừng
344 - Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345 - Nhân dân vắng mạt bằng tờ
346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 - Vua còn cuốc nguyệt cày mây
348 - Phong điều vũ thuận thú rày an dân
349 - Phong đăng hoà cóc chứa chang
350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 - Chính cung phương khảm vần mây
352 - Thức thay thiên tử là nay trị đời
353 - Anh hùng trí lượng thời coi
354 - Công danh chấng ngại tìm đòi ra đi
355 - Tìm lên đến thạch bàn khê
356 - Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
357 - Nhìn đi nhìn lại cho tường
358 - Chửa có sinh vương đâu là
359 - Chẳng tìm thì đến bình gia
360 - Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
361 - Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
362 - Tả long triều lại có thành đợt vây
363 - Hửu hổ uấn khúc giang này
364 - Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
365 - Ở xa thấy một con voi
366 - Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu
367 - ấy điềm thiên tử về chầu
368 - Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
369 - Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370 - Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 - Ðến đời thịnh vượng còn lâu
372 - Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 - Khuyên cho đông bắc nam tây
374 - Muốn làm tướng suý thì xem trông này
375 - Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 - Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
379 - Kià cơn gió thổi lá rung cây
380 - Rung bắc sang nam đông tới tây
381 - Tan tác kiến kiều an đất nước
382 - Xác xơ cổ thụ sạch am mây
383 - Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 - Hưng điạ tràng giang hoá nước đầy
385 - Một gió một yên ai sùng baí
386 - Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
387 - Con mùng búng tít con quay
388 - Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 - Nhà cha cửa đóng then cài
390 - Giờ mầm sấm động hỏi người đông lân
391 - Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 - Biết rằng ai có du phần như ai
393 - Bắt tay nằm nghĩ dông dài
394 - Thương người có một lo hai phận mình
395 - Canh niên tân phá
396 - Tuất hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư bình
398 - Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
402 - Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cản tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 - Tìm về quê củ bắt ngứa tàu
410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 - Trức đáo dương đầu mã vĩ
413 - Hồ binh bát vạn nhập trường an
414 - Baỏ Giang thiên tủ xuất
415 - Bất chiến tứ nhiên thành
416 - Lê dân bảo bảo noản
417 - Tứ hải lạc âu ca
418 - Dục đức thánh nhân hương
419 - Quá kiều cư bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch sinh ngưu lang
422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân
426 - Bắc hữu kim thành tráng
427 - Nam tạc ngọc bích thành
428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 - Mục giả dục nhân canh
430 - Phú quí hồng trần mộng
431 - Bần cùng bạch phát sinh
432 - Anh hùng vương kiếm kích
433 - Manh cổ đổ thái bình
434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Ðịa giới sĩ vị bạch
437 - Thủy trầm nhi bắc kinh
438 - Kỷ mã xu dương tẩu
439 - Phù kê thăng đại minh
440 - Trư thử giai phong khởi
441 - Thìn mão xuất thái bình
442 - Phân phân tùng Bắc khởi
443 - Nhiểu nhiểu xuất đông chinh
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành
446 - Thủy trung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 - Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương
450 - Danh vi nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại ngưu lang
452 - Mại dử lê viện dưỡng
453 - Khởi nguyệt bộ đại giang
454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
456 - Thiên dử thần thức thụy
457 - Thụy trình ngũ sắc quang
458 - Kim kê khai lựu điệp
459 - Hoàng cái xuất quí phương
460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
461 - Ðạo đức thực dữ đương
462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
463 - Vận khải ngũ viên trường
464 - Vận đáo dương hầu ách
465 - Chấn đoài cương bất trường
466 - Quần gian đạo đanh tự
467 - Bách tính khổ tai ương
468 - Can qua tranh đấu khởi
469 - Phạm địch tánh hung hoang
470 - Ma vương sát đại quỉ
471 - Hoàng thiên tru ma vương
472 - Kiền khôn phú taỉ vô lương
473 - Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
476 - Ta hồ vô phụ vô quân
477 - Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
478 - Ðoài phương phước điạ giáng linh
479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 - Phá điền thiên tử giáng trần
481 - Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm
482 - Trần công naỉ thị phúc tâm
483 - Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
484 - Tướng thần hệ xuất y chu
485 - Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
486 - Hiệu xưng thiên hạ thaí bình
487 - Ðông tây vô sứ nam thành quốc gia
Bạch Vân Thi Tập Chung
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(sưu tầm)
Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra.
Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho "số phận" nên đã ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào).
Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: "Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra "năm trăm năm sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người).
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng "kinh bang tế thế". Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền...
Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát "luật" đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình.
Sấm Trạng Trình :
1 - Vận lành mừng gặp tiết lành
2 - Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 - Một câu là một nhiệm mầu
4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5 - Trải vì sao mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay xe nhật phù lên
7 - Việt Nam khởi tổ xây nên
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 - Ðến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ rủ áo chấp tay
13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
14 - Tập bát tử rày quyền đã nổi lên
15 - Ðông a âm vị nhi thuyền
16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Ðoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
21 - Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
22 - Dưới lẫn trên nhà vẫn uống quen
23 - Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 - Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho
25 - Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
26 - Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
27 - Trời sinh ra những kẻ gian
28 - Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 - Áo vàng ấm áp đà hay
30 - Khi sui đấp núi khi say xây thành
31 - Lấy đạt điền làm công thiên hạ
32 - Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
33 - Con yết ạch ạch tranh khôn
34 - Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35 - Cơ trời xem đã mê đồ
36 - Ðã đô lại muốn mở đô cho người
37 - Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
38 - Suốt vạn dân cưu giận nhân than
39 - Dưới trên dốc chí lo toan
40 - Những đua bán nước bán quan làm giàu
41 - Thống rủ nhau làm mồi phú quí
42 - Mấy trung thần có chí an dân
43 - Ðua nhau làm sự bất nhân
44 - Ðả tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 - Dư đồ chia xẻ càn khôn
46 - Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
47 - Vội sang giàu giết người lấy của
48 - Sự có chăng mặc nọ ai đôi
49 - Việc làm thất chính tơi bời
50 - Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
51 - Xem tượng trời đả gia ra trước
52 - Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
53 - Cuồn phong cả sớm liền trưa
54 - Ðả đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55 - Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
56 - Ðể vạn dân dê lại giết dê
57 - Luôn năm chật vật đi về
58 - Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
59 - Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
60 - Cũng một lòng trời chống khác nao
61 - Xem người dường vững chiêm bao
62 - Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
63 - Một góc thành làm tâm chứng quỷ
64 - Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
65 - Bốn phương rời rở hồng trần
66 - Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
67 - Tiếc là những xuất dân làm bạo
68 - Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
69 - Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 - Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 - Hùm già lạc dấu khôn về
72 - Mèo non chi chí tìm về cố hương
73 - Chân dê móng khởi tiêu tường
74 - Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75 - Nội thành ong ỏng hư kinh
76 - Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
77 - Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
78 - Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
79 - Quốc trung kinh dụng cáo không
80 - Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 - Gà đâu sớm gáy bên tường
82 - Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
83 - Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 - Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85 - Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
86 - Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
87 - Ai còn khoe trí khoe năng
88 - Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
89 - Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90 - Bổng khiến người dá họa cho dân
91 - Muốn bình sao chẳng lấy nhân
92 - Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
93 - Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
94 - Ðúc tiền ra bán tước cho dân
95 - Xung xoe những rắp cậy quân
96 - Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
97 - Máy hoá công nắm tay dễ ngõ
98 - Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
99 - Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100 - Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
101 - Cát lầm bốn bể can qua
102 - Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
103 - Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 - Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 - Bấy giờ càng khốn thay ôi
106 - Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
107 - Thương những kẻ ăn rau ăn giới
108 - Gặp nước bung con cái ẩn đâu
109 - Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 - Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
111 - Xin những kẻ hai lòng sự chúa
112 - Thấy đâu hơn thì phụ thủa ân
113 - Cho nên phải báo trầm luân
114 - Ai khôn mới được bảo thân đời này
115 - Nói cho hay khảm cung rồng dấy
116 - Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
119 - Hể nhân kiến đã dời đất cũ
120 - Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
121 - Bốn phương chẳng động can qua
122 - Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
123 - Bấy giờ mở rộng qui khôi
124 - Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
125 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
126 - Hoàng phúc xưa đã định tây phong
127 - Làu làu thế giới sáng trông
128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
129 - Rõ sinh tài lạ khác thường
130 - Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
131 - Xem ý trời có lòng đãi thánh
132 - Ðốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
133 - Chọn đầu thai những vì sao cả
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 - Bắc phương chính khí sinh ra
136 - Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
137 - Song thiên nhật rạng sáng soi
138 - Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
139 - Ðời này thánh kế vị vương
140 - Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
141 - Uy nghi trạng mạo khác hình
142 - Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
143 - Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi
144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 - Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
147 - Ở đâu anh hùng hẳn biết
148 - Xem sắc mây đã biết thành long
149 - Thánh nhân cư có thụy cung
150 - Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lý kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hể trời sinh xuống phải thì
156 - Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 - Kìa những kẻ vội lòng phú quí
158 - Xem trong mình một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
161 - Xin khuyên đấng thời trung quân tử
162 - Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
163 - Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
164 - Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165 - Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
166 - Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
167 - Võ thông yên thủy thần kinh
168 - Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
169 - Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170 - Biết ray tay miệng biếng nói không
171 - Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 - Công danh choi chói chép trong vân đài
173 - Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 - Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175 - Nặng lòng thật có vĩ kinh
176 - Cao tay mới ngẫm biết tình năm nao
177 - Trên trời có mấy vì sao
178 - Ðủ no biền tướng anh hào đôi nơi
179 - Nước Nam thường có thánh tài
180 - Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
181 - So mấy lời để tàng kim quỉ
182 - Chờ hậu mai có chí sẽ cho
183 - Trước là biết nẽo tôn phò
184 - Sau là cao chí biết lo mặc lòng
185 - Xem đoài cung đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
187 - Nguôi lòng tham tước tham giàu
188 - Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 - Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 - Ngở oai đã dấy ngở nhân đã nhường
191 - Ai lấy gương vua U thủa trước
192 - Loạn ru vì tham ngược bất nhân
193 - Ðoài phương ong khởi lần lần
194 - Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 - Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 - Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
197 - Ấy là những binh thù Thái Thái
198 - Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu
200 - Tái binh mới động thập thò liền sang
201 - Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
202 - Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205 - Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
206 - Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
207 - Thành câu cá, lửa tưng bừng
208 - Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
211 - Sang thu chín huyết hồng tứ giả
212 - Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
213 - Ðua nhau đồ thán quần lê
214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 - Kẻ thì phải thủa hung hoang
216 - Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
217 - Kẻ thì mắc thủa hung tàn
218 - Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
219 - Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 - Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
221 - Bời bời đua mạnh tranh giành
222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 - Bể thanh cá phải ẩn cây
224 - Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225 - Nào ai đã dễ nhìn U
226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
227 - Cây bay lá lửa đôi ngàn
228 - Một làng còn mấy chim đàn bay ra
229 - Bốn phương cùng có can qua
230 - Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
231 - Ðoài phương thức có chân nhân
232 - Quần tiên khởi nghỉa chẳng phân hại người
233 - Tìm cho được chốn được nơi
234 - Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
235 - Bốn bề núi đá riểu quanh
236 - Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
237 - Hể đông nam nhiều phen tàn tạc
238 - Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
239 - Bắc kinh mới thật đế kinh
240 - Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 - Chim hồng vổ cánh bay cao
242 - Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
243 - Ai dễ cứu con thơ sa giếng
244 - Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
245 - Vạn dân chịu thủa u sầu
246 - Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
247 - Cấy cày thu đải thời mùa
248 - Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 - Nhân ra cận duyệt viễn lai
250 - Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
251 - Xem tượng trời biết đường đời trị
252 - Ngẩm về sau họ Lý xưa nên
253 - Giòng nhà để lấy dấu truyền
254 - Ngẩm xem bốn báu còn in đời đời
255 - Thần qui cơ nổ ở trời
256 - Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
257 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
258 - Sông Bảo Giang thiên định ai hay
259 - Lục thất cho biết ngày dày
260 - Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê
261 - Có thầy nhân thập đi về
262 - Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
263 - Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
264 - Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265 - Ra tay điều chỉnh hộ may
266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 - Lọ là phải nhọc kéo quân
268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
269 - Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270 - Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh
271 - Ân trên vũ khí vân hành
272 - Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
273 - Bản đồ chẳng sót cho ai
274 - Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275 - Vấng nền vương cha truyền con nối
276 - Dỏi muôn đời một mối xa thư
277 - Bể kình tâm lặng bằng tờ
278 - Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 - Au vàng khỏe đặt vững chân
280 - Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
281 - Vừa năm nhâm tý xuân đầu
282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 - Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 - Từ đinh đổi đời chí lực thất gian
285 - Một thời có một tôi ngoan
286 - Giúp trong việc nước gặp an thái bình
287 - Luận chung một tập kim thời
288 - Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
289 - Trượng phu có chí thời coi
290 - Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
291 - Tài nầy nên đấng vẽ vang
292 - Biết chừng đời trị biết đường đời suy
293 - Kể từ nhân đoản mà đi
294 - Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
295 - Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 - Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 - Thử cho tay giúp ra dùng
298 - Tài này so cùng tài trước xem sao
299 - Trên trời kể chín tầng cao
300 - Tay nghe bằng một ti hào biết hay
301 - Hiềm vì sinh phải thời này
302 - Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
303 - Hợp đà thay thánh nghìn tài
304 - Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305 - Nói ra thì lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 - Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
309 - Chờ cho nhân đoản hết sau
310 - Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 - Trời xui những kẻ ác gian
312 - Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
313 - Vua nào tôi ấy đã bày
314 - Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 - Ðua nhau bội bạn nghịch vi
316 - Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
317 - Tiếc tài gẩm được thời hay
318 - Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 - Tài trai có chí anh hùng
320 - Muốn làm tướng suý lập công xưng đời
321 - Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 - Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 - Ði tìm cho đến đế cung
324 - Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
325 - Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 - Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 - Chờ cho động đất chuyển trời
328 - Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
329 - Còn bên thì náu chưa xong
330 - Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 - Ðời ấy những quỉ cùng ma
332 - Chẳng còn ở thật người ta đâu là
333 - Trời cao đất rộng bao xa
334 - Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335 - Dù trai ai chửa biết tường
336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 - Ý ra lục thất gian nay
338 - Thời vận đã định thời nầy hưng vương
339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 - Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
341 - Vua ngự thạch bàn xa thay
342 - Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 - Gà kêu vượn hót vang lừng
344 - Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345 - Nhân dân vắng mạt bằng tờ
346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 - Vua còn cuốc nguyệt cày mây
348 - Phong điều vũ thuận thú rày an dân
349 - Phong đăng hoà cóc chứa chang
350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 - Chính cung phương khảm vần mây
352 - Thức thay thiên tử là nay trị đời
353 - Anh hùng trí lượng thời coi
354 - Công danh chấng ngại tìm đòi ra đi
355 - Tìm lên đến thạch bàn khê
356 - Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
357 - Nhìn đi nhìn lại cho tường
358 - Chửa có sinh vương đâu là
359 - Chẳng tìm thì đến bình gia
360 - Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
361 - Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
362 - Tả long triều lại có thành đợt vây
363 - Hửu hổ uấn khúc giang này
364 - Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
365 - Ở xa thấy một con voi
366 - Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu
367 - ấy điềm thiên tử về chầu
368 - Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
369 - Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370 - Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 - Ðến đời thịnh vượng còn lâu
372 - Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 - Khuyên cho đông bắc nam tây
374 - Muốn làm tướng suý thì xem trông này
375 - Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 - Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
379 - Kià cơn gió thổi lá rung cây
380 - Rung bắc sang nam đông tới tây
381 - Tan tác kiến kiều an đất nước
382 - Xác xơ cổ thụ sạch am mây
383 - Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 - Hưng điạ tràng giang hoá nước đầy
385 - Một gió một yên ai sùng baí
386 - Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
387 - Con mùng búng tít con quay
388 - Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 - Nhà cha cửa đóng then cài
390 - Giờ mầm sấm động hỏi người đông lân
391 - Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 - Biết rằng ai có du phần như ai
393 - Bắt tay nằm nghĩ dông dài
394 - Thương người có một lo hai phận mình
395 - Canh niên tân phá
396 - Tuất hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư bình
398 - Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
402 - Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cản tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 - Tìm về quê củ bắt ngứa tàu
410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 - Trức đáo dương đầu mã vĩ
413 - Hồ binh bát vạn nhập trường an
414 - Baỏ Giang thiên tủ xuất
415 - Bất chiến tứ nhiên thành
416 - Lê dân bảo bảo noản
417 - Tứ hải lạc âu ca
418 - Dục đức thánh nhân hương
419 - Quá kiều cư bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch sinh ngưu lang
422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân
426 - Bắc hữu kim thành tráng
427 - Nam tạc ngọc bích thành
428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 - Mục giả dục nhân canh
430 - Phú quí hồng trần mộng
431 - Bần cùng bạch phát sinh
432 - Anh hùng vương kiếm kích
433 - Manh cổ đổ thái bình
434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Ðịa giới sĩ vị bạch
437 - Thủy trầm nhi bắc kinh
438 - Kỷ mã xu dương tẩu
439 - Phù kê thăng đại minh
440 - Trư thử giai phong khởi
441 - Thìn mão xuất thái bình
442 - Phân phân tùng Bắc khởi
443 - Nhiểu nhiểu xuất đông chinh
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành
446 - Thủy trung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 - Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương
450 - Danh vi nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại ngưu lang
452 - Mại dử lê viện dưỡng
453 - Khởi nguyệt bộ đại giang
454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
456 - Thiên dử thần thức thụy
457 - Thụy trình ngũ sắc quang
458 - Kim kê khai lựu điệp
459 - Hoàng cái xuất quí phương
460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
461 - Ðạo đức thực dữ đương
462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
463 - Vận khải ngũ viên trường
464 - Vận đáo dương hầu ách
465 - Chấn đoài cương bất trường
466 - Quần gian đạo đanh tự
467 - Bách tính khổ tai ương
468 - Can qua tranh đấu khởi
469 - Phạm địch tánh hung hoang
470 - Ma vương sát đại quỉ
471 - Hoàng thiên tru ma vương
472 - Kiền khôn phú taỉ vô lương
473 - Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
476 - Ta hồ vô phụ vô quân
477 - Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
478 - Ðoài phương phước điạ giáng linh
479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 - Phá điền thiên tử giáng trần
481 - Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm
482 - Trần công naỉ thị phúc tâm
483 - Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
484 - Tướng thần hệ xuất y chu
485 - Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
486 - Hiệu xưng thiên hạ thaí bình
487 - Ðông tây vô sứ nam thành quốc gia
Bạch Vân Thi Tập Chung
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã ghé thăm trang Những điều nhỏ bé, rất hân hạnh được đọc những lời chia sẻ chân tình của bạn. Chúc bạn luôn thành đạt và hạnh phúc trong cuộc sống.